Hôm nay tôi thật may mắn đi cùng anh Chiến (*), một người bạn thân tình, về Tiến Thắng. Đây là quê anh Chiến, cũng là nơi tôi đã từng cùng Trường Thủy sản sơ tán về cách đây 42 năm và ở đó với dân làng đến hơn 4 năm. Xã Tiến Thắng nay có tên là Ngọc Long. Cái khác là tên gọi của xã, khác nữa là nhiều nhà tầng mọc lên, còn tên 4 thôn trong xã vẫn như xưa: Chi Long (Đống Vàng), Đông Phòng, Ngọc Tỉnh và Dịch Trì. Những năm sơ tán tôi chỉ ở Đông Phòng là chủ yếu. Tôi đến Đông Phòng và rời Tiến Thắng từ Đông Phòng. Vì thế, lần này tôi về Tiến Thắng nhưng thực háo hức được trở lại Đông Phòng. Tôi về thi tốt nghiệp Đại học Thủy sản ở đây, đi dạy và công tác ở Trường khi vẫn còn sơ tán nơi đây.
Ở vùng quê này, con người vẫn vậy, người cũ già đi, nhiều ông bà đã khuất núi, nhưng đường ngang ngõ tắt từ nhà này sang nhà khác thì vẫn thế, cái sởi lởi chân tình của những người gặp lại vẫn như xưa. Lớp cán bộ thôn, xã toàn người mới, phần lớn họ trong chiến tranh là bộ đội. Họ là những người đàn ông khỏe, có trí tuệ, không ngại việc vì đã từng kinh qua trận mạc, đó là cảm giác đến với tôi khi gặp anh em lớp người đó.
Cái khác thuở nào đập vào mắt tôi chỉ là ở chỗ: Trước đây trong xã chủ yếu là người già, phụ nữ và các cháu nhỏ, trai tráng vắng làng vì tòng quân ra trận, còn nay, đông đúc. Những người trẻ nhận biết tôi qua TV, còn người già thì trước khi trở lại tôi đã được nhắc đến với nhiều kỷ niệm tốt đẹp của một ông giáo “đúng nghĩa” về sơ tán. Họ nói khi gặp lại rằng chừng ấy năm mà thi thoảng vẫn nhắc đến tôi, con người luôn chân tình, yêu quý, hòa đồng với dân và truyền tụng trong nhau với những tình cảm tốt đẹp về tôi. Còn đối với bản thân tôi thì: Các cụ thời đó đã đi về với tổ tiên nhưng với cái cộng đồng hơi xa đường cái mà gần đô thị này vẫn còn những đặc điểm dễ nhận biết và vừa nhìn thấy đã cảm nhận được sự thân quen.
Tôi đến nơi đây một ngày cuối tháng 9 năm 1966. Cuộc sống của tôi ở Đông Phòng cũng bắt đầu từ đó. Lễ tốt nghiệp của khóa 4 chúng tôi được tổ chức ở Đống Vàng (thôn Chi Long)vào tối ngày 15 tháng 11 năm đó. Thân thuộc và ấm áp khi ở trong nhà dân và được lòng dân che chở.
Gia đình đầu tiên tôi đến là nhà cụ Miến. Tôi được phân đến đó nghỉ lại để chuẩn bị thi tốt nghiệp, rồi sau đó lại hàng năm sống trong nhà cụ mà đi dạy, đi họp và đi làm (Phòng giáo vụ, Đoàn Thanh niên). Trong nhà còn có cụ bà, các con cụ là chị Thủy và em Đỉnh. Người con gái lớn của cụ lấy chồng gần đó, cho đến giờ tôi cũng chỉ biết gọi chị theo tên chồng: Chị Đĩnh. Anh đi bộ đội, anh chị có các con nhỏ là Huyền, Hằng, và Hoàng (toàn vần H). Chị Đĩnh đi làm đồng thường ngày gửi con về ông bà ngoại, có cháu tối ngủ ở đó với ông bà.
Năm 1967 có một cơn bão to quét qua làng. Nhà cụ Miến đổ sập. Sách vở, chăn màn, quần áo tôi ướt mèm và rách nát. Trong khi cụ cho dựng lại nhà, tôi chuyển đến với anh em giáo viên bộ môn Chế biến ở cái nhà bỏ không ngoài xóm trại của gia đình ông giáo Minh. Gọi là xóm trại nên khá cách ly, chung rào với Bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Hưng sơ tán về, sát ngay nhà xác nên nhiều đêm còn nghe tiếng khóc của thân nhân người vừa mất. Mấy anh em tôi trong bộ môn hàng ngày gom lá chuối khô trong vườn nấu cơm, còn rau muống thì có như tự nhiên ở ao trước nhà. Ăn rau muống muối chua mãi đến xám xịt cả răng.
Cụ Miến dựng lại nhà xong, tôi lại quay về ở với cụ. Một thời gian sau, khi Đỉnh lấy vợ tôi chuyển sang nhà bà Phan và ở đó cho đến tận năm 1970, khi Hiệu bộ của trường dọn về thôn Tuấn Dị, xã Trưng Trắc, Văn Lâm, sát chợ Đường Cái.
Dù dời đi, tôi vẫn thường lui tới nhà cụ Miến, chuyện trò với hai cụ, với chị Thủy và em Đỉnh. Thật tội nghiệp, chị Thủy bị tàn phế từ nhỏ nhưng lúc nào cũng lạc quan, đon đả chào hỏi và đưa chuyện. Tôi nhớ, mùa hè nóng nực, chị hay ngồi trước ngõ với chiếc quạt nan và một cái gậy tre, ai qua cũng chào hỏi đon đả.
Bà Phan, chủ nhà mới của chúng tôi (Tôi và anh Phan Thế Phương, trưởng phòng giáo vụ nhà trường lúc đó) là một bà già tốt bụng, chịu đựng và rất khiêm nhường. Bà ở nhà một mình với căn nhà ngói 3 gian. Ông Phan là liệt sĩ, bị địch lùng và bắn chết khi trèo trốn trên cây sung sát bờ ao trước nhà quãng năm 1949 hay 50 gì đó. Bà tần tảo nuôi hai em Hán và Nga khôn lớn. Khi tôi đến ở trong nhà bà thì hai em đều đi học xa, thỉnh thoảng chủ nhật mới về với mẹ. Những ngày đó tôi thấy bà vui hơn, đỡ cô đơn hơn. Nhưng có lẽ vì có chúng tôi trong nhà, bà bớt hiu quạnh, thân tình với hai anh em chúng tôi. Có sào đất “năm phần trăm” bà cũng nhường chúng tôi trồng khoai lấy rau nuôi lợn, có cái chuồng lợn thì nhường hai anh em thả nuôi, lại còn phụ giúp chăm ba con lợn khi chúng tôi về Hà Nội cuối tuần hay đi công tác. Chuyện anh em tôi nuôi lợn trong nhà bà Phan thì buồn cười lắm, cả xóm biết mỗi khi chúng tôi để lợn đói. Có nhiều hôm chúng tôi ăn chung với Bà. Có những lần bà về quê ăn giỗ, gửi nhà cho anh em tôi đến mấy ngày. Trên cái giường tre bên phải Ban thờ mà bà giành để anh Phương và tôi nằm ngủ, thỉnh thoảng Hà Xuân Thông, trọ nhà cụ Tuân gần đó sang nằm chung để tâm sự chuyện tình duyên.
Miên man vậy, nhưng mọi thứ đó vẫn còn như in trong hồi ức của tôi. Gia đình bà, vợ con liệt sĩ nhưng không chút công thần, còn sống khổ hơn nhiều người khác trong thôn. Chắc thời nào cũng vậy, chỉ cán bộ là khá hơn, và tất nhiên là oai hơn. Lúc đó không những cán bộ xã mà cả của Hợp tác xã đếu được kính nể.
Họ Luyện chiếm đa phần trong thôn, mà có lẽ cả trong xã. Nhiều cán bộ họ Luyện, nhưng dân nghèo khổ họ Luyện cũng nhiều. Bây giờ, sau 40 năm, đám cờ bạc, nghiện hút chắc cũng không ít người họ Luyện.
Nhà đầu tiên tôi vào thăm lần này là gia đình anh chị Đĩnh. Anh gọi điện nhắc tôi nhiều và nói: trước chú bận, bây giờ về nghỉ rảnh rang rồi thu xếp về chơi. Mọi người thường nhắc chú!
Thật cảm động khi gặp chị Đĩnh đã già đi nhiều, chị đã 74 rồi. Tuy nhiên khi gặp chị Thủy còn cảm động hơn. Con người thông minh, đon đả mà tật nguyền suốt đời, còn bây giờ, ở cái tuổi gần 70, thì liệt 100% rồi, mọi việc đều tại chỗ, các cháu chuẩn bị chỗ cho chị là một cái giường trong căn nhà xây trên đất nền của cụ Miến xưa, chỉ xoay đi 90 độ. Trên cái giường đó, chị tự tắt bật đèn, tự cắm điện nấu cơm, bơm nước, rửa bát... một lỗ giữa giường có nắp che được ngụy trang rất đẹp là chỗ thông xuống một cầu tiêu tự hoại. Giỏi, giỏi lắm, tôi thán phục chị và bà con chăm sóc chị.
Lần này tôi lại lỡ hẹn gặp Hán để được thắp nén hương tưởng nhớ Bà Phan. Như vậy là 50% mục đích của chuyến đi không thành. Nghe nói bà mất được dăm năm. Tôi cứ tự hỏi tại sao mấy năm trước mình không về để còn gặp bà! Ngơ ngẩn vì thế mà gợi lên trong mình nhiều kỷ niệm với bà, với các con bà, với anh Phan Thế Phương, với phòng Giáo vụ, và với hai từ chỉ có lúc đó: Hiệu bộ. Cái cộng đồng Đại học thủy sản trong cả cộng đồng dân cư ở đó quyện vào nhau thật không quên được. Chỉ mấy năm thôi mà cái tình người lớn quá. Người dân mình tốt quá, nghĩ lại càng thấy tốt hơn, nhường hết nửa gian nhà cho người sơ tán về, trong đó có mình. Không có áo để nhường thì nhường cơm và mọi thứ trong nhà có. Nhớ những hôm giỗ chạp ở nhà cụ Miến, nhà bà Phan và những gia đình khác. Nhớ những bữa liên hoan khi Hán và Nga về, rồi nhớ đến cả chuyện 3 con lợn tôi và anh Phương nuôi. Hai anh em ra nhà máy xay Yên Mỹ tít tận cầu Lực Điền mua cám lợn đã được ép (lấy dầu) thành bánh, ra ao vớt bèo và ra ruộng cắt rau khoai về băm cho vào nồi cám.
Cái tình là ở đó, chẳng khác gì sự gắn kết ruột thịt nơi chôn nhau cắt rốn của mình, như đượm lửa rơm xung quanh nồi cơm vừa chín tới...
Nghĩ về quá khứ là vậy mà thấy vui trong lòng. Nhưng trong cái thấy hiện tại thì cũng còn có nhiều điều trăn trở, cũng thoảng qua chút đượm buồn. Có nhà gạch, nhà tầng là có cái gì đó hơn xưa nhưng chưa hẳn đã thoát nghèo. Các khu công nghiệp quanh xã mở mang, tiến dần đến sát vách mọi nhà mà công ăn việc làm chưa phải là chắc chắn. Miếng ăn vẫn là quả thực của sự lam lũ. Mấy con cá cũng khó tìm nước sạch để sinh sống. Anh Viết bí thư xã Ngọc Long bây giờ dẫn tôi đi trên cái bờ mương xưa. Cái thời tôi ở đó, đêm đêm đi họp về còn gặp cá vật đẻ nhảy lên bờ mương giẫy đành đạch, nay anh bảo nước ô nhiễm thế này không còn con cá nào nữa. Nghiện ngập cờ bạc hình như cũng là nguy cơ rình rập mọi nhà, đó là cái chung của những vùng ven đô hiện tại. Cháu Hằng, con anh chị Đĩnh, khi mới 6,7 tuổi tối tối còn sang ông bà ngoại hay bi bô với chú, bây giờ trông Huyền như một bà già rắn rỏi, toát vẻ tháo vát nhưng trên mặt đã hằn lên những nếp nhăn, toát ra sự lo âu về cuộc sống và tương lai con cái. Già nua hơn nhiều cái tuổi 48 của Huyền.
Tối đó, từ Tiến Thắng về đến nhà, tình cờ tôi nhận được một cuộc điện thoại của một người anh đáng kính. Trong cuộc gọi lần này, anh say sưa về Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn, rồi cả "Tam nông" nữa. Tôi cũng ậm ừ vì đang nghĩ về Ngọc Long, về Đông Phòng. Tôi luôn thán phục sự toàn tâm của những người cán bộ tận tụy như anh. Dù anh say sưa, tôi vẫn nghĩ, ta cũng sẽ cố làm tốt, tốt thực sự để có thể nói rằng cái tốt đó mọi người dân được hưởng, họ phải được trải nghiệm cái thành quả của những chủ trương như “Tam nông” bằng cuộc sống mới không có những gì trăn trở nêu trên. Làm nhiều rồi, trách nhiệm cũng không thấp, nhưng kết quả ra sao. Hãy để cuộc sống của người dân mọi nơi trả lời.
Đất tốt gần đường đã lấy hết làm khu công nghiệp. Những thứ từ thành thị đưa về lại có cả nguồn nước ô nhiễm, khói bụi và tệ nạn. Cơ hội việc làm kể ra cũng có, nhưng phải tha phương đi làm cửu vạn, đi xuất khẩu lao động nơi đất khách quê người. Những người ra đi xưa kia từ xã này là thoát ly làm cách mạng như bác Nguyễn Khai – thân sinh anh Nguyễn Chiến, Như ông chồng bà Phan và nhiều người khác, rồi bao nhiêu người tòng quân ra trận, nay đi ra ngoài số đông làm lao động giản đơn. Tôi băn khoăn, thử hỏi Công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn và "Tam nông" ra sao đây.
Dân ta xưa nay tài lắm, chịu khó lắm và chịu khổ cũng tài. Có thế mới giành được độc lập, mới thắng được Mỹ, mới phá rào chống bao cấp, vì thế sự lãnh đạo của cấp cao phải phát huy được những nét đẹp đó ở nông thôn, để mọi người cùng sáng tạo và cùng hưởng những thành quả tốt đẹp nhất của Công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đó là sự nghiệp chung, không phải chỉ là công việc và sự tự hào của vài nhà quản lý, mấy nhà khoa học, lâu nay vẫn thỉnh thoảng bị chỉ trích là "lạc quan tếu".
Tôi chắc cũng nhiều người nghĩ vậy.
Ghi chú:
(*) Trung tướng Nguyễn Chiến, Trưởng Ban Cơ yếu Chính phủ.
Tạ Quang Ngọc - Lớp Chế biến khóa 4 – Khoa Thủy sản trực thuộc Học viện Nông Lâm (Nay là Trường Đại học Nha Trang)